[ 8 ]
Tháng 9
–
10 2012
G
IÁM SÁT AN NINH
K
hông có gì phải bàn
cãi việc người dùng
cuối muốn có được
những lợi ích gia tăng của
công nghệ hình ảnh kỹ thuật
số/IP. Nhưng họ, dù là người
dùng cuối hay nhà tích
hợp hệ thống đều đang vấp
phải những rào cản lớn khi
chuyển đổi từ tín hiệu tương
tự (analog) sang tín hiệu số.
Hệ thống giám sát an ninh
kỹ thuật số không đơn giản
chỉ là sự kết hợp giữa các
camera analog và thiết bị ghi
hình DVR. Thực tế, các thành
phần cơ bản của một hệ
thống quan sát hình ảnh kỹ
thuật số thường không theo
tiêu chuẩn, bao gồm camera
IP, hệ thống thiết bị ghi hình
ảnh (NVR) và phần mềm
quản lý hình ảnh (VMS).
Vấn đề khiến các nhà tích
hợp phải đau đầu là dường
như tất cả các nhà cung cấp
camera IP đều tạo ra một giao
diện camera riêng biệt. Trong
khi ngành giám sát an ninh
vốn có những tiêu chuẩn
định sẵn như: tiêu chuẩn
nén (H.264, MPEG-4) và
công nghệ streaming (RSTP).
Nhưng các giao diện quản
lý và điều khiển hệ thống
camera lại chưa được chuẩn
hóa. Vì vậy, các nhà sản xuất
phần mềm và NVR phải tạo
ra những giao diện camera
cụ thể để phù hợp với giải
pháp của họ.
Những ngày tươi đẹp của
giải pháp analog với khả
năng plug-and-play đã trôi
vào quá khứ. Hiện tại, khả
năng tương thích giữa phần
cứng với phần cứng, giữa
phần cứng với phần mềm là
cả một thử thách. Điều này
khiến các nhà tích hợp càng
thêm do dự trong việc triển
khai các giải pháp giám sát
kỹ thuật số ngay cả khi khách
hàng của họ yêu cầu điều đó.
Để giải quyết khó khăn
này, các nhà cung cấp VMS
hàng đầu như Milestone và
Insight Video đã cho phép
tích hợp hàng trăm loại cam-
era và bộ mã hóa vào hệ điều
hành của họ. Nhưng ngay
cả như vậy, khả năng tích
hợp giữa các thiết bị vẫn còn
khiếm khuyết. Ví dụ, phần
mềm hỗ trợ một số tính năng
của loại camera này nhưng sẽ
Vấn đề khiến các nhà tích hợp hiện nay phải đau đầu là dường như
tất cả các nhà cung cấp camera IP đều tạo ra một giao diện camera
riêng biệt, ngoài ra các phần mềm quản lý và điều khiển hệ thống
camera cũng chưa được chuẩn hóa.
không hỗ trợ tính năng tương
tự đối với loại camera khác.
Các nhà tích hợp còn gặp
phải một thử thách khác, đó
là phải xác định khả năng
tương thích giữa các phần
mềm được chọn với camera
và các thiết bị ghi hình.
Đây là lý do mấu chốt cho
sự ra đời của ONVIF (Open
Network Video Interface
Forum). ONVIF là một diễn
đàn ngành có tính chất mở
và toàn cầu, được phát triển
để chuẩn hóa và đảm bảo
khả năng tương thích giữa
các thiết bị xử lý hình ảnh
trên mạng trong việc trao đổi
thông tin như: truyền hình
ảnh, âm thanh, siêu dữ liệu
(metadata) và thông tin điều
khiển. Nhiệm vụ của ONVIF
là giúp cho việc tích hợp giữa
các thiết bị giám sát trở nên
dễ dàng bằng cách sử dụng
một tiêu chuẩn mở toàn cầu:
tiêu chuẩn kết nối thiết bị
giám sát trên nền IP.
Nếu một sản phẩm mang
chứng nhận ONVIF, nghĩa
là khả năng tương thích của
nó đã được tiêu chuẩn hóa.
Một sản phẩm mang chứng
nhận ONVIF sẽ dễ dàng kết
nối được với các sản phẩm
mang chứng nhận ONVIF
khác. Nếu nhà tích hợp và
người dùng cuối đồng ý chỉ
sử dụng các sản phẩm mang
chứng nhận ONVIF, điều này
cũng đồng nghĩa rằng chúng
ta đang trên hành trình quay
lại với thế giới plug-and-play
của giải pháp analog.
Tại sao lại là ONVIF? Vì
ONVIF rất thực tế. ONVIF
cung cấp một tiêu chuẩn để
giải quyết các vấn đề về khả
năng tương thích trong hệ
thống giám sát hình ảnh, bao
gồm những yêu cầu quan
trọng như: xác định giao
diện cấu hình các thiết bị, xử
lý sự kiện (event handling),
điều khiển pan/tilt/zoom và
các vấn đề tương tự. Điều
quan trọng nhất là ONVIF
đã được đa số các nhà sản
xuất camera kỹ thuật số/IP,
phần mềm và phần cứng đón
nhận. Điều này được kiểm
chứng thông qua hầu hết
những sự kiện hàng đầu trên
toàn cầu. Từ gian hàng này
đến gian hàng khác ở khắp
mọi nơi đều chào đón chứng
nhận ONVIF.
Trần Văn Thanh
Theo BICSI
LÝ DO ONVIF SẼ XUẤT HIỆN MỌI NƠI
TRONG THỊ TRƯỜNG GIÁM SÁT AN NINH