Page 10 - FlippingBook-TamNhinMang-15-Project

Basic HTML Version

10
[ [
15
vào tầm quan trọng của từng lĩnh vực
kinh doanh mà thời gian ngừng hoạt
động của cơ sở hạ tầng CNTT nên
giảm xuống tương ứng. Từ góc độ
doanh nghiệp hoặc chính phủ, có thể
ra luật quy định cho các nhà cung cấp
dịch vụ như ngân hàng, giao thông
công cộng và các dịch vụ khác sẽ bị
phạt nếu dịch vụ cung ứng bị gián
đoạn. Đây là cách làm cần thiết nhằm
đảm bảo các dịch vụ luôn đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng. “Tuy
nhiên, hệ thống dự phòng không phải
là giải pháp duy nhất để tránh sự cố
gây gián đoạn. Vì khi hệ thống mạng
phát triển rộng hơn, có thể nhận ra xu
hướng nhiều TTDL sẽ được liên kết lại
với nhau nhằm đảm bảo tính sẵn sàng
cao cho các ứng dụng mà không đòi
hỏi mỗi TTDL đều phải có hệ thống
dự phòng đầy đủ.”
Hệ thống cáp cấu trúc
Khi nói đến cơ sở hạ tầng mạng, bao
gồm cả hệ thống kết nối cáp cấu trúc,
Van Leent cho rằng việc dự phòng
cho hệ thống này là khá phổ biến.
“Các TTDL được tiến hành kiểm tra
và đánh giá trong nghiên cứu hầu hết
đều quan tâm và tìm cách nâng cao
mức độ dự phòng đối với hệ thống
của mình. Trong các điều khoản của
tiêu chuẩn TIA-942, thì hệ thống mạng
thường được yêu cầu dự phòng ở mức
3 hoặc 4, điện và làm mát có thể là ở
mức 2. Và mọi người đều hiểu rằng
việc đầu tư vào CNTT cũng chính là
đầu tư kinh doanh, vì khi hệ thống
CNTT bị gián đoạn đồng nghĩa với
mọi hoạt động kinh doanh cũng gián
đoạn theo. Tuy nhiên, việc đầu tư
vào cơ sở hạ tầng thường bị coi là chi
phí, và không phải doanh nghiệp nào
cũng hiểu rằng việc thiết lập mức độ
dự phòng nguồn điện thấp hơn so
với mức độ dự phòng CNTT vẫn có
những rủi ro tiềm ẩn.”
Van Leent bổ sung thêm: “Dù hệ
thống mạng có mức dự phòng cao,
nhưng lại thường thiếu sự tách bạch
vật lý rõ ràng giữa các hệ thống dự
phòng. Chẳng hạn như phòng ER ở sơ
đồ thể hiện các cấp độ dự phòng của
hệ thống kết nối cáp cấu trúc trong
TTDL, mặc dù có hệ thống ER dự
phòng, nhưng cả hai ER chính và ER
dự phòng đều được lắp đặt chung ở
một vị trí. Với thiết kế này, khi sự cố
xảy ra trên ER chính, có thể gây ảnh
hưởng đến ER dự phòng và ngược lại.
Tuy nhiên, hiện nay các TTDL được
thiết kế đặc biệt nhằm đảm bảo độ sẵn
sàng cao đều đã tính đến khả năng dự
phòng của cơ sở hạ tầng mạng và sự
(C p đ 1 và cao hơn)
(C p đ 1 và cao hơn)
(C p đ 1 và cao hơn)
(C p đ 2 và cao hơn)
Trung tâm
d li u
Phòng
máy ch
Cáp và các
thành ph n
Phòng ER chính
(C p đ 3 và c p đ 4)
Phòng ER d phòng
Ngu n d
phòng
và HVAC
Phòng NOC
Phòng TR
Nơi ti p nh n k t
n i cáp
Nơi ti p nh n k t
n i cáp d phòng
Nhà cung c p
d ch v
Nhà cung c p
d ch v
K t n i
d phòng
EDA
EDA
EDA
ZDA
HDA
MDA
(Dành cho c p đ 4)
MDA d phòng
HDA
HDA
C p đ 1
C p đ 2
C p đ 3
C p đ 4
Tùy ch n
tách biệt vật lý này.”
Thuật ngữ TIA-942 được Van
Leent sử dụng để đề cập đến các phụ
lục trong tiêu chuẩn ANSI/TIA-942-A,
hỗ trợ xác định mức độ dự phòng
cho các hệ thống kết nối cáp cấu trúc
trong TTDL. Phụ lục này gồm 4 cấp
độ, cấp độ càng cao thì khả năng dự
phòng càng tốt. Các cấp độ này được
sử dụng để phác thảo ra ranh giới cần
thiết nhằm đạt đến mức độ dự phòng
phù hợp.
Vào thập niên 90, Viện Uptime
sử dụng thuật ngữ “Tier” để mô tả
phương pháp đánh giá hiệu quả của
cơ sở hạ tầng TTDL trong việc đáp
ứng độ sẵn sàng theo nhu cầu doanh
nghiệp. Trong khi đó, các tiêu chuẩn
TIA-942 và TIA-942-A của TIA sử
dụng thuật ngữ “Tier” để mô tả mức
độ tin cậy của cơ sở hạ tầng TTDL
(các hướng dẫn về kiến trúc, an ninh,
kết cấu, điện năng, tiếp đất, cơ khí và
phòng cháy chữa cháy).
Gần đây, Hiệp hội Công nghiệp
Viễn thông (TIA) đã đạt được thỏa
thuận với Viện Uptime về việc thống
nhất các thuật ngữ, theo đó TIA sẽ
loại bỏ từ “Tier” khỏi tiêu chuẩn TIA-
942-A. Hai tổ chức này cho biết “thỏa
thuận này là một bước đi mang lại
thành công cho tương lai của ngành
công nghiệp viễn thông, bằng cách
thiết lập các ký tự rõ ràng, ngắn gọn sử
dụng trong việc thiết kế các TTDL trên
toàn thế giới.” Và TIA đã tiến hành cập
nhật và tái phát hành tiêu chuẩn này
trong tháng 3/2014 vừa qua.
Trong quá trình nghiên cứu tiêu
chuẩn ANSI/TIA-942-A, Van Leent
thấy rằng những thay đổi xuất phát
từ thỏa thuận giữa hai tổ chức này là
không đáng kể. Điều này đồng nghĩa
với việc, những nhà quản trị TTDL sẽ
không phải làm gì khác hơn những
điều mà họ đã thực hiện trước đây
để đạt được các mức dự phòng theo
đúng quy định tại các phụ lục của tiêu
chuẩn ANSI/TIA-942-A.
Nguyễn Văn Đông Minh
Theo CIM
Các cấp độ dự phòng của hệ thống kết nối cáp cấu trúc