Page 12 - FlippingBook-TamNhinMang-16-Project

Basic HTML Version

cáp
12
[ [
16
nào, đồng thời giúp đề xuất thay đổi các
phương pháp đo lường cáp quang MM
truyền thống trước đây.
Băng thông
Băng thông là yếu tố quan trọng quyết
định hiệu suất của hệ thống, nhưng
thước đo để tính toán băng thông hiện
nay chưa tối ưu. Chẳng hạn, khi sử dụng
phương pháp đo băng thông EMB để
xem xét hai loại cáp quang MMA và B,
kết quả suy hao là như nhau. Nhưng khi
sử dụng phương pháp đo OFL, kết quả
cáp A chỉ suy hao 1,3 dB, còn cáp B suy
hao 3 dB cùng trên khoảng cách 550 m
với ứng dụng 10 GE. Ứng với thực tế,
số lượng tia sáng khúc xạ trên cáp A sẽ
nhiều hơn cáp B, hoặc cáp A có OFL cao
hơn cáp B. Phương pháp OFL đo đồng
thời các tia sáng di chuyển trong sợi
quang và các tia sáng bị khúc xạ ra khỏi
sợi quang, còn phương pháp đo EMB
lại không quan tâm các tia khúc xạ này.
Theo dẫn chứng trên, việc đưa phương
pháp đo băng thông OFL vào các tiêu
chuẩn mới là một hướng giúp tăng khả
năng xác định các vấn đề trên cáp quang
MM cho nhà sản xuất, nhân viên thi
công và người sử dụng.
Độ tin cậy
Yếu tố cuối cùng cần xem xét là độ tin
cậy– không chỉ riêng độ tin cậy quang
học mà cả độ tin cậy vật lý (các lớp vỏ
bảo vệ sợi quang). Hiểu đơn giản, độ
tin cậy quang học là khả năng hạn chế
sự thất thoát ánh sáng trong quá trình
truyền dẫn. Cáp quang BIMMF giúp
tăng khả năng truyền dẫn ánh sáng với
bán kính uốn cong nhỏ, nhưng không
tăng độ tin cậy vật lý. Thỉnh thoảng
bạn sẽ thấy hình minh họa một sợi dây
nhảy cáp quang được uốn cong trên kệ
với bán kính rất nhỏ, khoảng 1 đến 2
mm. Điều này không chính xác, vì bán
kính uốn cong nhỏ như vậy sẽ giảm
tuổi thọ sử dụng dây nhảy. Quan niệm
cho rằng có thể uốn cong cáp quang
tương tự như cáp đồng đôi xoắn là
hoàn toàn sai lầm.
Tiếp tục phát triển các tiêu
chuẩn ứng dụng
Đầu thập niên 90, các ứng dụng cho
hệ thống mạng trên khoảng cách ngắn
sử dụng đi-ốt phát quang để truyền
ánh sáng với tốc độ 10 Mbps. Sự ra đời
của nguồn phát quang Laser VCSEL
(Vertical Cavity Surface Emitting Laser)
đã giúp tăng tốc độ truyền dữ liệu
lên hàng gigabit. Năm 2002-2003, tốc
độ truyền dữ liệu đạt 10 GE. Hiện tại,
ngành CNTT đang hướng tới tốc độ 40
và 100 Gbps, sử dụng băng thông laser
cao hơn với cáp quang OM3 và OM4.
Khi tốc độ thay đổi lên đến 40 và
100 Gbps, ngành công nghiệp sản xuất
cáp cũng chuyển từ truyền tải từng đôi
(1 sợi truyền và 1 sợi nhận) sang liên
kết 8 sợi quang với nhau (4 sợi truyền
và 4 sợi nhận) cho tốc độ 40 Gbps, và
liên kết 20 sợi quang với nhau (10 sợi
truyền và 10 sợi nhận) cho tốc độ 100
Gbps. Giao diện đầu nối cũng thay đổi
theo đó cho phù hợp. Ứng dụng 40 GE
sử dụng đầu nối MPO 12 sợi quang: 4
sợi truyền, 4 sợi nhận và 4 sợi tại vị trí
trung tâm không sử dụng. Ứng dụng
100 GE có nhiều thay đổi hơn, sử dụng
cáp 24 sợi quang (chia làm 2 hàng, 12
sợi quang/hàng), trong đó dùng 10 sợi
quang/hàng để truyền dữ liệu với tốc
độ 10 GE/sợi.
Môi trường TTDL đang chuyển
hướng ứng dụng 10 GE cho các máy
chủ server, còn đường trục từ thiết bị
chuyển mạch tại tủ server cũng chuyển
sang ứng dụng 40 GE dựa trên hệ thống
cáp quang OM3 và OM4. Đồng thời,
ứng dụng 100 GE cũng được mong đợi
sẽ sớm triển khai, dù việc này đòi hỏi
phải tăng số lượng cáp quang hiện có
trong hệ thống. Sẽ rất lý tưởng nếu có
một buổi hội thảo về thiết kế 4 x 25 cho
ứng dụng 100 GE (4 sợi quang truyền và
4 sợi quang nhận) ở các thế hệ Ethernet
tiếp theo. Thiết kế 4 x 25 được đánh giá
cao hơn so với thiết kế 10 x 10 hiện nay
vì tiết kiệm chi phí đầu tư cáp mới và
thiết bị đi kèm (có khả năng tận dụng lại
hệ thống 4 x 10 ứng dụng 40 GE).
IEEE đã tổ chức kêu gọi trao đổi về
ứng dụng 400 GE với kỳ vọng sẽ nhận
được tài trợ cho nhóm nghiên cứu.
Song song với đó, việc nghiên cứu tiêu
chuẩn kênh quang– Fiber Channel cũng
đang được tiến hành.
Một hệ thống có khả năng truyền dữ
liệu với tốc độ cao hơn luôn là mục tiêu
để các nhà nghiên cứu và sản xuất thiết
bị không ngừng hướng đến.
Trương Hoàng Quí
Theo BICSI