Page 18 - FlippingBook-TamNhinMang-17-Project

Basic HTML Version

18
[ [
17
T
ừ đầu những năm 1990,
Uptime Institute đã làm việc
với các chủ sở hữu và nhà điều
hành trung tâm dữ liệu. Thời điểm đó,
các thiết bị CNTT một nguồn thường
được sử dụng cho phần lớn các tài sản
CNTT của doanh nghiệp. Điều này sẽ
dẫn đến những rủi ro có thể xảy ra khi
thiếu điện, vì chỉ có một đường điện
lưới cung cấp nguồn duy nhất vào hệ
thống như hình 1.
QUÁ KHỨ
Là người sáng lập Site Uptime
Network (nay là Uptime Institute
Network), Ken Brill đã sớm nhận ra
nguy cơ lỗi do mất điện hoặc do bảo
trì hệ thống phân phối điện chính sẽ là
vấn đề lớn đối với những TTDL cần độ
sẵn sàng cao. Uptime Institute bắt đầu
xem xét hệ thống phân phối điện chính,
gồm cả bộ nguồn cung cấp điện cho
các thiết bị CNTT được lấy từ các cổng
ra của UPS đến thanh phân phối điện
(PDU) bất kỳ, hoặc đến bảng điều khiển
điện từ xa (RPP) vào tủ rack. Năm 2000,
Ken Brill và Uptime Institute Network
đi tiên phong trong việc xây dựng các
thông số kỹ thuật chuẩn cho thiết bị có
khả năng chịu lỗi điện nhằm giải quyết
sự cố mất nguồn, thông số này được
cập nhật mới vào năm 2002. Đến năm
2004, Uptime Institute công bố tài liệu
“chứng nhận thiết bị có khả năng chịu
lỗi điện”, được xem là thông tin cần biết
để người dùng trang bị các sản phẩm
CNTT có độ sẵn sàng cao đảm bảo hoạt
động cho hệ thống. Tuy nhiên, sau khi
tài liệu này được công bố, lỗi ở hệ
thống phân phối nguồn điện vẫn tiếp
tục là nguyên nhân gây ra phần lớn
sự cố mất nguồn trong TTDL.
Giữa những năm 1990, Uptime
Institute đi đầu trong việc xây dựng
khái niệm Tier - phương pháp xác định
các đặc tính hiệu suất trong TTDL. Mỗi
Tier được phát triển dựa trên các Tier
trước đó, cộng thêm khả năng bảo trì và
chịu lỗi điện. Quá trình phát triển này
đạt đến hoàn thiện vào năm 2009, khi
bộ tiêu chuẩn Tier được xuất bản: “Mô
hình liên kết theo Tier”. Tiêu chuẩn Tier
cũng gồm các quy định đối với thiết bị
dual-corded trong TTDL Tier III và IV.
TTDL Tier III đòi hỏi phải có hai đường
dẫn điện vào riêng biệt, cho phép bảo
trì đồng thời mọi thành phần và đường
dẫn điện bất kỳ trong hệ thống. Ngoài
yêu cầu cần hai đường dẫn nguồn điện
vào riêng biệt, TTDL Tier IV còn đòi hỏi
thêm khả năng tự động xử lý các sự cố.
HIỆN TẠI
Rõ ràng, thông số kỹ thuật chuẩn về
thiết bị có khả năng chịu lỗi điện phiên
bản 2.0 có ảnh hưởng đến 12 năm sau
đó. Ban đầu, những thiết bị này được
gọi là thiết bị CNTT có khả năng chịu lỗi
điện. Hiện nay, các thiết bị này đã
trở thành nền tảng của những ứng
dụng cần độ sẵn sàng cao và được
biết đến với tên gọi ‘thiết bị dual-
corded’. Hai thuật ngữ ‘thiết bị
CNTT có khả năng chịu lỗi điện’ và
‘thiết bị CNTT dual-corded’ được sử
dụng thay thế cho nhau.
Các thiết kế TTDL Tier III và Tier IV
cũng dựa trên kiến trúc dual-corded
với yêu cầu phải là active-active (cả
hai nguồn điện phải hoạt động đồng
thời để chia tải và dự phòng khi một
trong hai nguồn bị lỗi), gồm hai đường
phân phối điện vào riêng biệt như
hình 2. Khái niệm dual-corded thường
gắn liền với kiến trúc có độ sẵn sàng
cao trong các TTDL, các nhà cung cấp
Internet quy mô lớn và các bên cho