Page 7 - FlippingBook-TamNhinMang-30-Project

Basic HTML Version

7
87
2017
thông thường với dạng điểm-điểm. Khi
số lượng máy tính và các thiết bị khác
tăng lên, nhu cầu tăng số lượng kết nối
khiến hệ thống hạ tầng cáp ngày càng
phức tạp và tốn kém. Từ thực tế đó, các
tổ chức tiêu chuẩn công nghiệp đã phát
triển và khuyến nghị hạ tầng kết nối cáp
cần phải có cấu trúc rõ ràng để phục
vụ kết nối đa thiết bị và đa ứng dụng.
Cấu trúc trong tiêu chuẩn này cho phép
tương thích giữa các nhà cung cấp thiết
bị và nhà cung cấp cáp.
Hệ thống cáp trong tòa nhà cần phải
được tổ chức rõ ràng, nhất quán và có
khả năng tương tác để quản lý một cách
hiệu quả, đảm bảo hiệu năng ổn định
và lâu dài. Tiêu chuẩn TIA và ISO/IEC
khuyến cáo áp dụng hệ thống cấu trúc vì
các ưu điểm sau:
• Dễ nâng cấp để tương thích với
công nghệ mới.
• Có thể thay thế thiết bị với thời
gian gián đoạn dịch vụ tối thiểu
• Hỗ trợ di chuyển và thay thế dễ
dàng hơn.
• Có thể tương thích với thiết bị của
nhà cung cấp khác.
• Nâng cao khả năng quản lý.
• Hỗ trợ việc dự phòng và khôi phục
kết nối.
Để đáp ứng cả hai chuẩn ANSI/TIA-
568-C.1 và ISO/IEC 11801 Edition 2.2, hệ
thống cần ít nhất hai ổ cắm tại khu vực
làm việc. Theo đó, đường cáp cố định
từ ổ cắm tại khu vực làm việc sẽ kết
nối đến thanh đấu nối tương ứng đặt ở
phòng viễn thông. Sau đó, cáp đấu nối
được sử dụng để đấu nối tới thiết bị chủ
động như router, switch... Mô hình này
cung cấp một giải pháp linh hoạt để đấu
nối từ bất cứ cổng nào của thiết bị chủ
động đến ổ cắm tại khu vực làm việc.
Việc thay thế/chuyển đổi cũng dễ thực
hiện, chỉ cần thay đổi vị trí cắm của cáp
đấu nối tại thanh đấu nối. Đường cáp cố
định từ sau thanh đấu nối tới ổ cắm luôn
cố định, không thay đổi.
Việc tuân thủ đúng hệ thống cáp cấu
trúc giúp hỗ trợ tốt không chỉ các ứng
dụng hiện tại mà cả ứng dụng trong
tương lai. Đường cáp cố định và cáp trục
chỉ cần thi công một lần duy nhất. Khi
cần nâng cấp hệ thống hỗ trợ ứng dụng
mới và tốc độ truyền cao hơn, ta chỉ cần
nâng cấp thiết bị chủ động.
Trong hệ thống PON truyền thống,
cáp quang đấu nối trực tiếp giữa OLT,
bộ chia quang và ONT như trong
Hình 2
,
việc này dẫn đến:
• Không đáp ứng chuẩn TIA và ISO
• Khó thay đổi hoặc di dời.
• Khó nâng cấp ONT tại khu vực
làm việc để hỗ trợ một số ứng dụng đặc
biệt như PoE (Power over Ethernet) và
10Gbase-T.
• Không thể nâng cấp lên các ứng
dụng yêu cầu truyền dẫn trên sợi
quang đôi.
• Phụ thuộc vào nhà thầu cung cấp
thiết bị PON.
• Không có khả năng dự phòng.
Ưu điểm của PON theo mô hình
hệ thống cáp cấu trúc
Vì cấu trúc PON truyền thống không
thỏa mãn yêu cầu của tiêu chuẩn TIA và
ISO/IEC, việc triển khai PON dựa trên hệ
thống cáp cấu trúc sẽ giúp nâng cao tính
linh hoạt và lợi thế của giải pháp.
Để triển khai một cấu trúc PON theo
mô hình hệ thống cáp cấu trúc, ta phải
thay thế cáp quang đơn từ hộp đấu nối
tại OLT đến bộ chia quang bằng cáp
quang đôi nhằm đảm bảo tất cả đường
cáp trục đều có thể tiếp cận đến ổ cắm.
Trong trường hợp này, cáp đấu nối
quang vẫn có thể sử dụng loại sợi quang
đơn để đấu nối tới thiết bị.
Sau đó, kết nối từ bộ chia quang
đến ONT cũng được thay thế bằng cáp
quang đôi, đấu nối thông qua thanh đấu
nối. Tương tự việc kết nối từ OLT đến bộ
chia quang, kết nối từ bộ chia quang đến
ONT cũng sử dụng sợi quang đơn để
đấu nối tới thiết bị.
Mục đích của việc thay thế sợi quang
đơn bằng sợi quang đôi trong cấu trúc là
để hỗ trợ các công nghệ trong tương lai,
khi các ứng dụng yêu cầu hai sợi quang
để truyền nhận dữ liệu. Chỉ với một lần
lắp đặt duy nhất, đường cáp cố định sẽ
hỗ trợ không giới hạn cho các tiêu chuẩn
công nghệ và băng thông trong tương
lai. Ngoài ra, sợi quang còn lại có thể sử
dụng để dự phòng, tăng độ tin cậy cho
hệ thống.
Các thiết bị chủ động sử dụng giữa
OLT và bộ chia quang, hoặc giữa bộ chia
Hình 1: Trong mạng quang thụ động, mỗi sợi quang singlemode kết nối tại ONT
đều bắt nguồn từ OLT, được chia thành nhiều sợi quang thuê bao bằng bộ chia
quang và kết nối đến ONT.