Thư ký biên tập
NGUYỄN THANH TUẤN
Mỹ thuật
NGUYỄN TRẦN MINH
Phát hành
BÙI VĂN TIN
In tại nhà in Lê Quang Lộc. GPXB số 22/QĐ-BT-STTTT, ngày 31/8/2012
Trung tâm dữ liệu:
vấn đề quản lý
TRONG SỐ NÀY
Đơn vị xuất bản
Công ty TNHH TM
–
DV Tin học
Nhân Sinh Phúc (NSP Co., Ltd.)
359 Võ Văn Tần, Phường 5, Quận 3,
Tp. Hồ Chí Minh
ĐT: +84 8 3834 2108 Fax: +84 8 3834 2109
Website: www.nsp.com.vn
E-mail: tamnhinmang@nsp.com.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản
PHẠM TRUNG HIẾU
Ban biên tập
PHẠM TRUNG HIẾU
LƯU LÊ QUI NHƠN
NGUYỄN VĂN ĐÔNG MINH
VŨ QUANG MINH
TRẦN NGỌC THANH
Thư ký biên tập
NGUYỄN THAN TUẤN
Mỹ thuật
TRẦN QUỐC TUẤN
VŨ THANH HƯƠNG
Phát hành
BÙI VĂN TIN
In tại nhà in Lê Quang Lộc. GPXB số 22/QD-BT-STTTT, ngày 31/8/2012
Lựa chọn switch cho
hệ thống giám sát an ninh
N
ói đến quản lý data center
(trung tâm dữ liệu), bốn
thách thức lớn mà các CIO
phải đối mặt trong giai đoạn hiện nay
là: (1) Độ sẵn sàng của data center (cụ
thể là nhận biết nguy cơ ngưng hoạt
động trước khi xảy ra, tự động phân
tích tác động của thay đổi...); (2) Hiệu
quả và chi phí hoạt động (tập trung
hóa việc truy cập các thiết bị CNTT,
nhận biết sự không hiệu quả trong
sử dụng năng lượng...); (3) Thời gian
phản ứng khi có sự thay đổi (nắm rõ
thống kê tài sản trong data center,
hoạch định nhu cầu tương lai của
các dịch vụ CNTT, các kịch bản triển
khai cấu hình thay thế...); và (4) Đảm
bảo tuân thủ quy định và tương thích
tiêu chuẩn (kiểm soát và ghi log truy
cập vào các hệ thống CNTT, đáp ứng
các tiêu chuẩn về hiệu quả sử dụng
năng lượng...)
Vấn đề này, sau khi tham dự Hội
nghị Đối tác châu Á Thái Bình Dương
lần thứ 8 của Emerson tại Singapore
đầu năm 2011, tôi đã có dịp truyền
đạt lại tại Hội nghị Banking Vietnam
tháng 5/2011 tại Hà Nội. Bốn thách
thức nêu trên sẽ càng gây nhiều khó
khăn hơn cho các nhà quản lý nếu
họ vẫn sử dụng quy trình xây dựng
và vận hành data center kiểu truyền
thống trước đây, các bước hoạch
định, thiết kế và triển khai được thực
hiện theo tư duy “tĩnh”, nghĩa là tất
cả các thông số, kể cả nhu cầu phát
triển trong tương lai đều phải được
cho trước, thiếu linh động, dẫn đến
trình trạng đầu tư trước và không
hiệu quả. Ngoài ra, thiết kế cũng dựa
trên việc phân toàn bộ data center
thành nhiều lớp theo chức năng, do
đó các bước tiếp theo như vận hành
và bảo trì cũng phải quản lý theo
thiết kế này: Lớp Dịch vụ Doanh
nghiệp (các phần mềm ứng dụng)
và lớp Cơ sở hạ tầng CNTT (ảo hóa,
lưu trữ, kết nối mạng) được quản lý
bởi bộ phận CNTT, trong khi lớp cơ
sở hạ tầng data center (không gian
vật lý, điện, lạnh) lại được quản lý
bởi bộ phận hạ tầng. Như vậy, cùng
một data center nhưng sẽ được quản
lý bởi hai bộ phận khác nhau, do đó
chắc chắn sẽ tồn tại một khe hở về
quản lý giữa cơ sở hạ tầng CNTT và
cơ sở hạ tầng data center. Để lấp kín
khoảng hở này cần có một giải pháp
tích hợp có khả năng thu thập và hợp
nhất dữ liệu từ toàn bộ các thiết bị cơ
sở hạ tầng vật lý cũng như CNTT.
Trong
Tầm nhìn Mạng
các số
trước, chúng tôi đã có dịp giới
thiệu khái niệm DCIM (Data Center
Infrastructure Management) như là
một giải pháp quản lý tích hợp để lấp
kín khe hở nêu trên.
Tầm nhìn Mạng
số này sẽ đề cập việc quản lý ở một
khía cạnh khác, gồm những yếu tố
cần xem xét khi lựa chọn giải pháp
quản lý trung tâm dữ liệu.
PHẠM TRUNG HIẾU
Phó Giám đốc NSP
Tiêu điểm
Chuyên đề
Chi phí triển khai
TTDL dạng mô-đun
16
18
12
17
20
15
Những yếu tố cần quan tâm
để lựa chọn UPS phù hợp
6 8
5 yếu tố cần xem xét
khi lựa chọn giải pháp
quản lý TTDL
5 yếu tố cần xem xét
khi lựa chọn giải pháp quản lý TTDL
Chi phí triển khai
TTDL dạng mô-đun
10GBASE-T và Cat. 6A
Giải pháp không chỉ dành cho TTDL
SỐ 8
THÁNG 11–12/2013
9 11
10GBASE-T và Cat. 6A
Giải pháp không chỉ
dành cho TTDL