13
9 10
2013
đổi đáng kể khi các máy chủ và các thiết
bị lưu trữ riêng lẻ giờ đã được ảo hóa,
dẫn đến sự gia tăng mật độ và nhu cầu
về hiệu suất cao trong TTDL. Kiến trúc
mạng 3 tầng sẽ bị phá vỡ thành một kết
nối mạng duy nhất, hứa hẹn mang đến
hiệu suất cao hơn. Bên cạnh đó, thời
đại của BYOD sẽ ảnh hưởng lớn đến hệ
thống mạng. Trong các nhánh ngang của
kết nối mạng, các kết nối sẽ bị phủ đầy
bởi lượng thiết bị không dây ngày càng
tăng. Với những vấn đề liên quan đến
thời gian truyền, giao thoa sóng, điểm
truy cập giả mạo và một số vấn đề khác,
Wifi sẽ khiến cơ sở hạ tầng mạng ngày
càng thêm phức tạp.
Trong thập niên qua, các kết nối cáp
đồng 1 Gbps đã được sử dụng vô cùng
hiệu quả do có giá thành không đắt, lại
dễ dàng lắp đặt và đo kiểm, đáp ứng
được hầu hết nhu cầu của người dùng.
Nhưng đến hiện tại, nó đã không còn
phù hợp và các hệ thống mạng đang
chuyển dần từ kết nối cáp đồng 1 Gbps
sang cáp đồng 10 Gbps, cáp quang 40
Gbps, thậm chí là 100 Gbps. Khi dữ liệu
truyền trên mỗi kết nối cáp càng nhiều,
thì vai trò của chúng cũng càng quan
trọng hơn.
Thách thức từ sự phát triển
Các tiêu chuẩn mới được phát hành
khiến vấn đề càng thêm phức tạp. Trước
đây, người dùng sử dụng cáp Cat. 5
như một lựa chọn
tất yếu, nhưng
giờ họ đã có
nhiều lựa chọn
hơn với Cat. 5e,
Cat. 6, Cat. 6A
hoặc Cat 7 đối với
cáp đồng, và nhiều
loại cáp quang khác.
Sự đa dạng của tiêu
chuẩn ngành, hệ thống
đo lường và các yêu cầu
hợp chuẩn càng làm tăng
thêm tính phức tạp với
những thuật ngữ viết tắt khó
hiểu như TIA, ISO, EF, TCL,
CDNEXT, TCLT, ELTCTL… và
các chuẩn Wi-fi 802.11a, b, g, n,
ac & ad. Xa hơn nữa là các khái
niệm như “kéo cáp Cat. 6 này và
kết nối đến tủ server, kéo cáp Cat. 6 này
và kết nối đến switch, kéo cáp Cat. 5e
này cho mạng LAN...”
Trong thời điểm hiện tại, những
người chịu trách nhiệm triển khai và
bảo trì cơ sở hạ tầng (các bộ phận thi
công cáp, quản lý dự án, quản trị mạng
và một số vị trí khác) đang phải đối mặt
với sức ép về nguồn lực. với những ràng
buộc về thời gian và chi phí, họ cần phải
làm được nhiều việc hơn, với tốc độ
nhanh hơn.
Một thực tế có thể không được thừa
nhận trong tình huống này là sự hạn
chế về nhân sự và chuyên môn. Một số
nhân sự được đào tạo về chuyên môn để
làm những công việc nhất định thường
không đủ đáp ứng nhu cầu thực tế (đặc
biệt, tỷ lệ người thi công lắp đặt không
tương xứng với số lượng cần lắp đặt) và
một số khác bị hạn chế về chuyên môn.
Sự phân chia giữa những người quản
lý dự án và người thi công lắp đặt ngày
càng rõ ràng. Những người quản lý
dự án có các chứng chỉ nghề nghiệp và
chuyên môn thật sự đáp ứng được yêu
cầu của việc lắp đặt và đo kiểm, trong
khi những kỹ thuật viên hoặc người thi
công lại bị hạn chế về đào tạo, có chuyên
môn thấp và thậm chí trong một số
trường hợp còn sử dụng cả công nhân
thời vụ.
Dù nguồn lực hạn chế và phải làm
việc trong các môi trường có dự án kết
nối cáp phức tạp, nhưng yêu cầu về
số lượng lắp đặt và chứng nhận
cáp vẫn ngày càng tăng. Theo
các cuộc khảo sát, gần 95%
nhà thầu mong muốn số
lượng kết nối cáp được
chứng nhận trong năm
sau sẽ bằng hoặc cao hơn
năm nay, 59% trong số
đó muốn duy trì chỉ tiêu
như cũ và 34% mong
muốn đạt số lượng cao
hơn. Trong quá trình
thi công, đo kiểm và
chứng nhận là công
đoạn cần thiết nhằm
đảm bảo mọi kết nối
đều hoạt động tốt.
Các bảng báo cáo
chứng nhận sẽ giúp
việc xử lý sự cố thuận lợi hơn, đây đồng
thời cũng là yêu cầu bắt buộc trong
chính sách bảo hành của các nhà sản
xuất cáp.
Với khối lượng công việc nhiều
và nguồn lực khan hiếm, các nhà thầu
thường triển khai riêng biệt đội thi
công/đo kiểm và đội dịch vụ. Thực tế,
phương pháp tiếp cận này có thể làm
tách biệt các nhân sự có khả năng sửa
chữa những kết nối bị lỗi với các nhân
sự sẽ phát hiện ra lỗi trong quá trình
đo kiểm. Khi một lỗi được tìm thấy và
không thể khắc phục ngay lập tức, công
việc sẽ bị gián đoạn. Một khảo sát gần
đây với những người thi công cho thấy,
55% trong số họ thường luân chuyển
thiết bị đo kiểm của mình nhiều lần
trong một tháng từ công trình này đến
công trình khác.
Theo kết quả các cuộc khảo sát được
thực hiện bởi Fluke Networks, 91%
những người lắp đặt ở Mỹ, 90% ở Châu
Á, và 97% ở Châu Âu cho biết có ít nhất
một sự cố xảy ra trong 30 ngày gần nhất.
Trong đó, hơn một nửa những người lắp
đặt ở Mỹ và Châu Âu báo cáo có hơn 7
sự cố, và hơn một nửa những người lắp
đặt ở Châu Á báo cáo có hơn 10 sự cố
trong khoảng thời gian này.
Cần lưu ý rằng trong những sự cố
này sẽ có nhiều vấn đề liên quan đến
cáp và thi công cáp. Khả năng xảy ra lỗi
trong quá trình thi công là rất đáng kể.
Do có nhiều người khác nhau cùng thi
công, nên khi chứng nhận có thể gặp
các lỗi như thông số đo kiểm không
đúng, cấu hình nhầm, sai dữ liệu đo
kiểm, kết quả không phù hợp, đo kiểm
hoặc báo cáo không đầy đủ… Tính linh
động của công cụ đo kiểm (có khả năng
di chuyển từ công trình này qua công
trình khác và quay lại công trình đang
thi công mà không cần phải cài đặt lại
thiết bị và dữ liệu) là yếu tố góp phần
đáng kể giúp hạn chế các lỗi xảy ra
trong quá trình này.
Những sự cố này sẽ làm giảm năng
suất của người thi công. Dữ liệu khảo sát
cho thấy, trung bình mất 45 giờ để giải
quyết các sự cố về hạ tầng kết nối cáp
trong những dự án có khoảng 1000 kết
nối ở Mỹ. Con số này ở Châu Á là 61 giờ
và ở Châu Âu là 26 giờ.