20
[ [
23
Bước ngoặt thứ hai là sự ra đời
các hệ thống quản lý tòa nhà – BMS
(Building Management Systems)
sử dụng bảng điều khiển kỹ thuật
số để giám sát hiệu quả sử dụng
năng lượng, có thể xem là tiền thân
của DCIM sau này. Theo thời gian,
DCIM đã phát triển thành một hệ
thống toàn diện hơn, không chỉ để
giám sát nguồn điện mà còn quản lý
tài sản, năng lực hệ thống và nhiều
tính năng đặc biệt khác. Chính “cuộc
cách mạng” này đã giúp tăng qui mô
của thị trường, tuy nhiên, đi cùng
với điều này là những mô tả dễ gây
nhầm lẫn về chức năng cũng như
những ưu điểm mà DCIM và BMS
mang lại cho khách hàng.
Hiện nay, một phần của thị
trường DCIM được phát triển dựa
trên nền tảng BMS truyền thống với
các chức năng quản lý, giám sát và
tối ưu hóa PUE. Phần còn lại phát
triển theo hướng của một DCIM với
nhiều tính năng mở rộng, tập trung
vào nhu cầu quản lý đa dạng của các
chủ sở hữu TTDL.
Phân biệt giữa
BMS và DCIM
BMS có thể được xem là đại diện cho
các tính năng cơ bản của công cụ
DCIM truyền thống như: cung cấp
khả năng giám sát, cảnh báo và điều
khiển (Hình 1).
Với việc TTDL ngày càng phát
triển và nhu cầu của các nhà vận
hành – sở hữu TTDL ngày càng cao,
thúc đẩy công cụ DCIM phát triển
với nhiều tính năng hơn. Phần lớn
các tính năng này hướng đến việc tập
hợp, phân tích một lượng lớn dữ liệu
hạ tầng mạng thu thập từ nhiều nền
tảng giám sát như: hệ thống máy chủ,
quản lý môi trường, giám sát năng
lượng, hệ thống an ninh, khả năng
phân bổ, mức độ sử dụng tài nguyên;
từ đó tổng hợp thành dữ liệu báo cáo.
Các nhà quản lý sẽ dựa vào báo cáo
này để thống kê và đưa ra phương án
điều chỉnh thích hợp nhằm tối ưu hóa
khả năng vận hành TTDL. Đây chính
là giá trị gia tăng mà DCIM mang lại
khi so sánh với nền tảng BMS.
Bộ phận quản
lý DCIM
Một TTDL thường được vận hành bởi
hai nhóm có chuyên môn khác nhau:
đội ngũ quản lý CNTT và đội ngũ
quản lý hạ tầng TTDL. Trong suốt
quá trình hoạt động, hai nhóm này
liên kết chặt chẽ với nhau để cùng
vận hành, quản lý TTDL, đồng thời
cũng có những yêu cầu khác nhau
về thông tin nhận được từ cùng một
DCIM.
Đội ngũ quản lý CNTT thường
ưu tiên báo cáo những thông số liên
quan trực tiếp đến công việc kinh
doanh của doanh nghiệp và cố gắng
tối ưu hóa chi phí vận hành TTDL;
trong khi đội ngũ quản lý hạ tầng chỉ
tập trung vào việc giảm thiểu nguy
cơ tiềm ẩn cục bộ và đánh giá tính
khả thi khi thực hiện dự án.
Mối quan hệ cốt lõi mà DCIM
phải giải quyết ở đây là sự liên kết
giữa đội ngũ quản lý CNTT và hạ
tầng, đòi hỏi phải trao đổi thông tin
qua lại giữa hai đội ngũ này để đảm
bảo khả năng quản lý linh hoạt từ
người vận hành cho đến cấp quản lý
cao nhất. Sự phối hợp thông tin nhịp
nhàng là một trong những yếu tố
chính giúp hệ thống DCIM được thiết
kế và vận hành tốt, mang đến lợi ích
lớn hơn cho tổ chức và doanh nghiệp.
Những tính năng
cần có của DCIM
Hiện nay, DCIM được phát triển với
rất nhiều tính năng khác nhau, trong
đó, có năm tính năng cơ bản mà bất
kỳ một DCIM nào cũng phải trang bị
(Hình 2).
- Giám sát hạ tầng điện, môi
trường, thiết bị CNTT và an ninh.
- Quản lý tài sản.
- Khả năng hoạch định.
- Phân tích và báo cáo.
- Tích hợp với hệ thống khác.
Giám sát
Những hệ thống phải được giám sát
bao gồm các hạ tầng điện, các thông
số môi trường, an ninh và không gian
cho thiết bị CNTT.
Giám sát hạ tầng điện
: khả năng
giám sát chi tiết dữ liệu điện như
nguồn cấp, điện áp và dòng điện cho
những hệ thống khác nhau, giúp đội
ngũ kỹ sư nắm rõ phân bố hệ thống
điện để dễ quản lý, hỗ trợ khả năng
hoạch định và mở rộng hạ tầng trong
tương lai.
Kiểm soát môi trường
: giám sát và
điều khiển tất cả thông số về môi
trường, từ nhiệt độ, độ thông gió, hệ
thống cấp nước và ga…
Hình 1